Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2013

Tản mạn John Steinbeck & Robert Burns



Tản mạn John Steinbeck & Robert Burns 


Hôm qua đọc bài Của Chuột và Người của cô PA trên báo Anh Vũ, tự dưng tôi nhớ lại một ngày đã xa xưa, thuở mới làm quen với văn chương nước ngoài, rồi lần mò đi vào con đường dịch thuật, thoáng chốc đã mấy mươi năm. Tôi nhớ rõ như thế bởi tác phẩm dịch thuật đầu tiên của tôi chính là Of Mice and Men của John Steinbeck. [Riêng Robert Burns - người có khổ thơ mà John Steinbeck trích ra bốn chữ dùng làm tựa đề cuốn sách nói trên – thì mãi về sau này tôi mới đọc đến, nhưng tôi lại dịch khá nhiều bài thơ của nhà thơ Tô Cách Lan này.] Và tôi để nguyên những bản dịch có từ những năm đó - không sửa chữa thêm bớt gì cả, dù biết trong những bản dịch đó vẫn có nhiều điều cần hiệu chỉnh: tôi muốn giữ nguyên cái hương vị mộc mạc của thuở ban đầu. Hy vọng hương vị ấy có thể san sẻ cùng quý vị một điều gì đó, một niềm vui nho nhỏ nào đó, trong những ngày tháng năm nắng nóng, đầy tư lương phiền muộn này. 

1. John Steinbeck là nhà văn Mỹ đoạt giải Nobel Văn Chương 1962, vàOf Mice and Men (1937) là một tác phẩm nổi tiếng của ông. Ở Việt Nam có hai bản dịch phổ biến, một của Hoàng Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu Tập (1967), một của Đào Văn Bình (2010). Từ lâu lắm rồi, tôi có dịp đọc tác phẩm này, và ngay đoạn mở đầu, tôi nhớ mình đã choáng ngợp và thích thú như thế nào về một bức tranh đầy âm thanh, đầy màu sắc, thanh bình và lặng lẽ được John Steibeck vẽ ra với một cách dùng từ khá lạ. Đoạn đó như sau:

A few miles south of Soledad, the Salinas River drops in close to the hillside bank and runs deep and green. The water is warm too, for it has slipped twinkling over the yellow sands in the sunlight before reaching the narrow pool. On one side of the river the golden foothill slopes curve up to the strong and rocky Gabilan Mountains, but on the valley side the water is lined with trees- willows fresh and green with every spring, carrying in their lower leaf junctures the debris of the winter's flooding; and sycamores with mottled, white, recumbent limbs and branches that arch over the pool. On the sandy bank under the trees the leaves lie deep and so crisp that a lizard makes a great skittering if he runs among them. Rabbits come out of the brush to sit on the sand in the evening, and the damp flats are covered with the night tracks of 'coons, and with the spread pads of dogs from the ranches, and with the split-wedge tracks of deer that come to drink in the dark.

Nhiều người đã thắc mắc vì sao tác giả lại dùng chữ drops, bởi đây là một động từ dùng để diễn tả một sự rơi, một sự đổ xuống dưới do trọng lực. Nhưng làm sao một dòng sông lại có thể “đổ xuống” thung lũng, trong khi đáy sông cũng là đáy thung lũng kia chứ? Phải chăng từ moves là từ phù hợp nhất ở đây? Nhiều người khác thì tự hỏi, vì sao đã hillside rồi còn thêm chữ bank - hillside bank? Ngẫm kỹ mới hiểu là bờ sông phía những sườn đồi. Rồi những từ như twinkling liệu có cần dùng không? Bởi sự lấp lánh của một vật không tùy thuộc, hay không tạo ra, sựấm, lạnh của nó. Rồi the golden foothill slopes là gì? Phải chăng tác giả muốn nói là the golden slopes of the foothills? Tại sao phải dùng thêm the spread pads, the split – wedge tracks, trong khi chỉ cần dùng the tracks là đủ? … Nhiều người cho rằng, khi dùng những từ như vậy, có thể John Steinbeck muốn đề cao nhạc điệu của lời văn. Nhưng khi hiểu thì phải hiểu theo nghĩa khác! Từ đây mới thấy rằng văn John Steinbeck không dễ dịch. Có phải vậy không? Chúng ta hãy thử đọc bản dịch đoạn nói trên của Hoàng Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu Tập: 

Phía Nam Soledad chừng mấy dặm, dòng sông Salinas đổ xuống theo sát sườn đồi, nước xanh thẳm và ấm nhờ phơi mình trên bãi cát vàng lấp lánh ánh nắng trước khi êm ả chảy vào một cái hồ nhỏ hẹp. Một bên bờ là những sườn đồi vàng ánh nhô lên, soải mình đến tận những vách núi đá Gabilan, bờ sông bên kia cây cỏ um tùm, hễ vào tiết xuân rặng liễu lại xanh rờn và những chiếc lá phía dưới gốc còn giữ dấu vết các trận lụt mùa đông qua, những hàng sung, lá và cành nhẵn thín vươn ra và kết thành một vòm trên mặt nước yên lặng. Trên bãi cát ven sông lá rụng thành một thảm dày và khô làm mỗi khi có con thằn lằn chạy qua, lại gây ra tiếng sột soạt ngân dài. Chiều đến, lũ thỏ từ các bụi rậm ra ngồi chơi trên cát và những chỗ đất thấp mỗi buổi sáng thường hãy còn dấu chân hay vết móng các đàn chuột ăn cá, bầy chó trại hay bầy hươu đã tới uống nước trong đêm. 



Rồi chúng ta lại đọc bản dịch của Đào Văn Bình (2010): 

Một vài dặm về phía nam Soledad, dòng sông Salinas tạt vào phía sườn đồi, nước sâu và xanh biếc. Dòng sông ấm áp vì đã lấp lánh trườn mình trên giải cát vàng chói chang ánh mặt trời trước khi đổ vào hồ nước hẹp. Trên một bờ của dòng sông, những ngọn đồi vàng uốn lượn theo rặng núi đá Galiban hùng vĩ, nhưng còn về phía bờ thung lũng, dòng sông chạy sóng đôi với những rặng liễu xanh tươi mà cứ mỗi độ xuân về trên những cuống lá ở dưới thấp vẫn còn mang theo rác rưởi của trận lụt mùa đông; và những cây sung dâu thân trắng nổi vân nổi sọc nằm ngả ngớn, cành lá la đà trên mặt hồ. Trên bờ cát dưới những rặng cây, lá khô ròn nằm xếp lớp tới nỗi những con rắn mối chạy sột soạt trong đó. Vào buổi chiều những con thỏ chui ra khỏi bụi rậm ngồi trên cát; những khu đất bằng phẳng, ẩm ướt phủ đầy dấu chân của loài chồn đi ăn đêm, những vết chân của những con chó đến từ các nông trại, và dấu móng chẻ của những con nai ra uống nước trong đêm tối.



Sycamore tree: cây sung, xóm tôi ngày xưa có nhiều cây sung, và da nó cũng lốm đốm trắng như vậy. Nhưng sung mọc bên hồ thì tôi chưa thấy bao giờ!



Willow tree: cây liễu, ở quê tôi, quả thực có những hàng liễu rũ bên hồ như vậy. Bây giờ người ta chặt bỏ hết rồi!



Coon: gấu trúc Mỹ / ngày xưa không biết coon là con gì tôi dịch là con hải ly (!).




Lizard: con thằn lằn này, dưới quê tôi đích thị là con rắn mối. Rất hiền lành, và đúng là anh ta thường chạy vụt qua trên những đám lá khô, đôi khi làm người ta giật mình. 

Phiếm bàn: Hai bản dịch này thể hiện những khác biệt rõ rệt, vài thí dụ: Coons: đàn chuột ăn cá / loài chồn đi ăn đêm /mà đúng ra phải là con gấu trúc Mỹ; Lizard: con thằn lằn / con rắn mối… Đối với chữ drops: bản dịch thứ nhất dịch là đổ xuống, bản dịch thứ hai dịch là tạt vào. Theo tôi nghĩ nên dịch là trôi, chảy,... hoặc có thể là đổ về, hay đổ vào. Bản dịch thứ nhất không dịch chữ deep trong runs deep and green. Bản dịch thứ hai có dịch chữ deep với nghĩa là sâu. Tuy nhiên trong văn cảnh, tôi nghĩ chữ deep có thể dịch là huyền bí. Và động từ runs ở đây có nghĩa là trở nên. Tương tự như vậy là câu the strong and rocky Galiban Mountains. Bản dịch thứ nhất không dịch chữ strong, và hiểu chữ rocky theo nghĩa đá. Bản dịch thứ hai dịch chữ strong thành hùng vĩ, và cũng hiểu chữ rocky theo nghĩa đá. Theo tôi, chữ rocky còn có một nghĩa là hiểm trở. Ở đây xin giới thiệu bản chuyển ngữ ngày xưa của tôi về đoạn văn nói trên: 


Xa xa mấy dặm về phía nam Soledad, dòng Salinas chảy xuôi theo mạn sườn đồi, trở nên trong xanh, huyền bí. Và nước cũng trở nên ấm nữa, bởi trước khi đổ vào một lòng hồ nhỏ hẹp, dòng sông đã lấp lánh đi qua những bãi cát vàng phơi dưới ánh mặt trời. Bờ sông phía chân đồi nhấp nhô những dốc đá óng ả như sắc vàng ròng, uốn lượn quanh co tới tận rặng Galiban hùng vĩ và hiểm trở. Bờ sông phía thung lũng chen chúc những hàng cây - những hàng liễu tươi xanh mỗi độ xuân về, mà những cuống lá dưới thấp của chúng vẫn còn vết tích của trận lụt mùa đông. Và những hàng sung với những nhánh, những cành, vỏ lốm đốm trắng, vươn ra trên mặt hồ lặng lẽ. Ngoài bãi cát, dưới những tàn cây, lá rụng rơi đầy và khô giòn đến mức có thể nghe rõ cả tiếng sột soạt khi có một con rắn mối chạy vụt qua trên đó. Vào buổi chiều tà,từ những bụi rậm, mấy chú thỏ ra ngồi trên cát, và vùng đất ẩm ướt bằng phẳng in đầy dấu chân của những con hải ly, những con chó đến từ nông trại, và những con hươu nai, ra uống nước trong đêm. 



2. Robert Burns (1759 – 1796) là một nhà thơ lớn người Tô Cách Lan, bài To a Mouse (1875) của ông có một khổ thơ mà sau này nhà văn John Steinbeck rút ra bốn chữ dùng làm tựa đề cho tác phẩm Of Mice and Men của ông. Khổ thơ đó như sau:


But little Mouse, you are not alone,
In proving foresight may be vain:
The best laid schemes of mice and menGo often awry,
And leave us nothing but grief and pain,
For promised joy!


Bản dịch của Thái Bá Tân:

Nhưng chuột ơi, đâu chỉ ngươi cô đơn.
Trong nỗi buồn, nào ta có gì hơn -
Cũng như ngươi, ta chờ mong hạnh phúc.
Hòa bình, ấm no,
Nhưng số phận chỉ cho ta cái nhục,
Cái buồn, cái lo. 


Phiếm bàn: Ngoài câu đầu, phần còn lại của bản dịch đã được dịch giả dịch thoát đến mức ... mờ cả tinh thần của nguyên tác! Thôi thì đành mạo muội gởi đến các bạn bản tạm dịch thô sơ sau đây vậy: 

Nhưng chuột ơi, đâu chỉ một mình mi
biết chờ mong có thể là hão huyền
những dự tính đẹp đẽ nhất của chuột và người
thường luôn thất bại
và chúng ta không còn gì ngoài sầu muộn đớn đau
cho một niềm vui từng hứa hẹn …

Nhìn lại bài thơ chuyển ngữ thô nói trên, tôi thấy có được một niềm vui nho nhỏ là ngay từ những năm xa xưa đó, tôi đã giữ được 4 chữ: Của Chuột và Người trong câu dịch của mình. May lắm thay! Chúc quý vị những ngày tháng năm vui vẻ.

Nguyễn Đại Hoàng
5/2013

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2013

Man mác với Sara Teasdale

Sara Teasdale ( 1884 – 1933).Sara Teasdale sinh ra ở St Louis, tiểu bang Missouri, nước Mỹ.Tập thơ Love Songs của nữ thi sĩ được giải Pulitzer năm 1918. Sara Teasdale thích sống ẩn dật, ít tiếp xúc với thế giới bên ngoài.Sara Teasdale thích viết về tình yêu, nỗi mất mát trong tình yêu và nỗi cô đơn.

Xin giới thiệu sau đây một số bài thơ nổi tiếng của bà.


THE FLIGHT 

We are two eagles
          Flying together,
Under the heavens,
          Over the mountains,
Stretched on the wind.
          Sunlight heartens us,
Blind snow baffles us,
          Clouds wheel after us,
Raveled and thinned.

We are like eagles;
But when Death harries us,
Human and humbled
When one of us goes,
Let the other follow –
Let the flight be ended,
Let the fire blacken,
Let the book close.


BAY 

Ta như đôi chim ưng
cùng nhau bay
dưới trời này
trên núi non này
và gió ngàn khơi

Hân hoan khi nắng đẹp
Gian nan ngày tuyết rơi
làn mây nhỏ xa xôi
bay sau ta bối rối

Ta như đôi chim ưng
Thần Chết đến
kiếp người nhỏ mọn
khi một cánh chim biệt ly
hãy để chim kia cùng ra đi !
Và, chuyến bay đời , thôi hãy ngừng !
ngọn lửa đời , thôi hãy tắt !
cuốn sách đời , thôi hãy khép !


SONG OF AMALFI 

I asked the heaven of stars
          What should I give my love –
It answered me with silence,
          Silence above.

I asked the darkend sea,
          Down where the fishermen go –
It answered me with silence,
          Silence below.

Oh, I could give him weeping
          Or could him song –
But how could I give him silence
          My whole life long?



TẶNG PHẨM

Tôi hỏi trời sao
Những gì có thể tặng chàng
Nhưng trời sao im lặng
Trên cao

Tôi hỏi biển âm u
những ngư ông
lưới tung ngoài bãi vắng
Nhưng biển xanh im lặng
Thâm sâu

Ôi, tôi có thể tặng chàng
giọt lệ hay bài ca
Nhưng làm sao tôi có thể tặng chàng
sự lặng câm
suốt cả một đời tôi ?


LET IT BE FORGOTTEN

Let it be forgotten, as a flower is forgotten,
          Forgotten as a fire that once was singing gold,
Let it be forgotten for ever and ever,
          Time is a kind friend, he will make us old.
If someone asks, say it was forgotten
          Long and long ago,
As a flower, as a fire, as a hushed footfall
          In a long–forgotten snow.


LÃNG QUÊN

Thôi hãy lãng quên
Như bông hoa lãng quên
Như ngọn lửa một lần sáng chói
Hãy lãng quên muôn đời và mãi mãi
Thời gian – người bạn vàng – sẽ làm mờ phai tuổi trẻ
Nếu ai đó hỏi , hãy nói đã lãng quên bạn nhé

Lâu rồi
Như một cánh hoa
Như một ngọn lửa
Như một dấu chân trên tuyết
Lâu rồi



NGUYỄN ĐẠI HOÀNG chuyển ngữ

4/2008